giai phap chong ngap nuoc

Phu luc 1. DANH MUC C PI--IÓ vÓ1 BIÉ V ÁN LIÊN QUAN NHÅM 2010-2015 g 11 2015 UBND tinh ÐãkNông) Các nôi dung khác chua thtrc hiên Giải pháp nào để Hà Nội tiêu thoát nước, hết tình trạng 'cứ mưa là ngập'? Thứ sáu, 24/06/2022 19:07. 4 / 5 ( 1) Bình chọn. Lưu bài. Hà Nội cứ sau mỗi trận mưa là "đường biến thành sông" nhưng chưa thể xử lý dứt điểm. Vậy giải pháp nào cho việc tiêu thoát nước, giúp Ở đất nước của chúng ta những công trình cống thoát nước đã lỗi thời và không được nạo vét, cùng với sự tăng trưởng của ngành xây dựng nước nhà ngày càng có các ngôi nhà lớn, cao ốc và mật độ dân số gia tăng trong các năm gần đây, công trình thoát nước của các thành phố lớn như Hồ Chí Minh và Frau Sucht Reichen Mann Banker Antwortet. Năm 1993, Chính phủ Nhật quyết định xây kênh thoát nước ngầm ngoại vi đô thị, hay còn gọi là dự án đô Kuala Lumpur gần với nơi hợp lưu của 2 dòng sông lớn tại Malaysia nên hàng năm, người dân TP hiện đại bậc nhất Đông Nam Á này cũng phải “kêu trời vì lụt”. Để khắc phục tình trạng trên, lãnh đạo TP này đã quyết định xây dựng một đường hầm "2 trong 1", vừa dùng để thoát lũ và phục vụ giao thông. Cụ thể, trong điều kiện thời tiết bình thường, đường hầm sẽ được sử dụng như hầm đường bộ bình thường cho xe cộ qua lại. Tuy nhiên, khi nước sông tràn bờ, nó sẽ được chuyển thành một kênh thoát lũ ngay bên dưới những con đường, giúp cho các con đường phía trên không bị ngập. Và từ khi đưa vào hoạt động, đường hầm này đã hạn chế được tình trạng ngập úng tại thủ đô Kuala Tokyo Nhật Bản cũng có lợi thế gần sông tiện cho giao thương và nguồn nước cung cấp cho người dân. Tuy nhiên sau mùa Đông tuyết tan, rồi lượng nước mưa ập đến, nỗi lo ngập lụt lại bao phủ TP này. Năm 1993, Chính phủ Nhật quyết định xây kênh thoát nước ngầm ngoại vi đô thị, hay còn gọi là dự án G. Dự án mất 13 năm để hoàn thành với kinh phí 3 tỷ USD. Công trình này còn được gọi bằng cái tên điện Pantheon dưới lòng trình vĩ đại này gồm 5 trụ chứa cao 75m, rộng 32m được nối với nhau bằng đường ống dài 6,3km, đường kính 10m và nằm sâu dưới mặt đất 50m. Đường ống này sẽ dấn một bể chứa nước khổng lồ cao 25m, dài 177m, rộng 78m - rộng hơn một sân bóng. Mỗi khi mưa lớn, nước sẽ được dẫn từ các trụ chứa tới bể chứa khổng lồ. Sau đó, nước từ bể chứa sẽ được bơm ra sông Endo với các máy bơm công suất lớn để tránh ngập cho toàn khi đó, tại Singapore, thông qua hệ thống sông, cống và kênh, nước mưa ở 2/3 diện tích Singapore được đưa vào 17 hồ chứa để xử lý trước khi đưa vào sử dụng. Trong số này, công trình phức hợp đập - hồ chứa Marina là quan trọng nhất và được thế giới đánh giá rất cao. Đập Marina hoạt động thông qua hệ thống các cổng và máy bơm. Công trình bao gồm 9 cổng thép cao 5m, rộng 30m trên thành đập, trải dài qua con kênh rộng 350m và 7 máy bơm có tổng công suất hút 280m3 nước mỗi giây. Mỗi cổng nặng 70 tấn và mỗi máy bơm có khối lượng 28 điều kiện bình thường, những cánh cổng vận hành bằng thủy lực này đóng kín. Khi trời mưa to nhưng thủy triều thấp, cổng sẽ mở để xả nước lũ xuống biển. Khi mưa nặng hạt kết hợp với thủy triều cao, cổng đóng trong khi máy bơm được kích hoạt để bơm hút nước lũ xuống biển. Nhờ hệ thông này, tình trạng ngập lụt giảm hẳn ở các khu vực nằm ở vị trí thấp của Singapore như Chinatown, Jalan Besar và các siêu dự án chống ngập kể trên, hiện nay người dân ở nhiều TP trên thế giới cũng tìm cách "sống chung với ngập" bằng các công nghệ quy mô hộ gia đình hay khu phố đơn cử như Water Gate. Thiết kế của Water Gate là một thiết bị nhựa PVC thông minh sử dụng áp lực của dòng nước để ổn định chính nó. Khi thấy dòng nước đang tràn tới, người sử dụng chỉ cần trải tấm nhựa này ra giữa đường. Phần tiếp xúc với mặt đất sẽ tự dính chặt trong khi phần bên trên của nó sẽ tự phình to ra và chặn dòng nước đang đổ tới. 152m chiều dài dễ dàng được triển khai trong vòng 2 phút, và chặn đứng dòng nước cao đến Quick Dams - sản phẩm ngăn chặn nước ngập lụt được bán chạy nhất ở Bắc Mỹ, nó xuất hiện ở khắp các cửa hàng và những trang thương mại điện tử lớn. Với chiều dài 5m, 10m và 17m, Quick Dams sử dụng chính dòng nước làm đập chặn nước. Được cấu tạo từ vật liệu thấm nước, khi dòng nước tiến đến, Quick Dams sẽ hút hết nước vào bên trong và phình to ra thành những bức tường cao để chặn đứng dòng nước… Briefly unavailable for scheduled maintenance. Check back in a minute. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi Bài báo khoa học Mô phỏng mức độ ngập và đề xuất giải pháp thoát nước chống ngập cho khu vực Văn Thánh – thành phố Hồ Chí Minh Hoàng Thị Tố Nữ1*, Đoàn Thanh Vũ1, Lê Văn Phùng1, Cấn Thu Văn1 1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường dtvu phunglv ctvan * Tác giả liên hệ Tel. +84–908817694 Ban Biên tập nhận bài 05/7/2020; Ngày phản biện xong 10/8/2020; Ngày đăng 25/8/2020 Tóm tắt Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là trung tâm kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta với quá trình đô thị hóa nhanh kéo theo nhiều hệ lụy về cơ sở hạ tầng, trong đó vấn đề ngập lụt đô thị là một trong những vấn đề nhức nhối nhất. Lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè thuộc 7 quận của là một trong những nơi có mức độ ngập cao. Nghiên cứu đã ứng dụng Mô hình SWMM để mô phỏng quá trình sản sinh dòng chảy từ mưa và quá trình tiêu thoát nước mưa trên lưu vực, từ đó đề xuất các giải pháp giảm ngập. Kết quả nghiên cứu cho thấy giải pháp hồ điều hòa có tính hiệu quả hơn so với giải pháp cải tạo mặt phủ đô thị. Các kịch bản cho thấy chỉ với 186 ha diện tích hồ điều hòa có thể cơ bản xóa ngập cho khu vực Văn Thánh thuộc lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Từ khóa Ngập lụt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh; Mô hình SWMM. 1. Mở đầu Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, được xác định là trung tâm kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta là đầu mối giao thông thuận lợi để giao lưu khu vực phía nam, trong nước và quốc tế. Song còn tồn tại nhiều bất cập, mà bất cập lớn nhất là tình trạng ngập, lụt ở thành phố. Nhiều năm qua, đã đầu tư nhiều tiền của và công sức cho vấn đề này như nâng cấp hệ thống thoát nước thành phố, khơi thông hệ thống kênh rạch, góp phần thoát nước và làm đẹp, trong sạch môi trường thành phố. Song, thực tế tình trạng ngập lụt càng lan rộng. Nhiều năm qua, các công trình xây dựng chủ yếu nâng cốt xây dựng lên hàng mét để vì họ sợ tình trạng ngập lụt khó cho việc kinh doanh… và thực tế đó đã tạo ra tình trạng đô thị này đổ nước vào đô thị kia, các đô thị ngăn cản nhau trong việc thoát nước và xảy ra tình trạng “càng chống càng ngập” [1]. Xét về điều kiện địa hình Nhìn chung, có địa hình tương đối bằng phẳng và thấp với một số gò triền phía Tây–Bắc và Đông–Bắc, độ cao mặt đất có xu hướng giảm dần từ phía Tây–Bắc về phía Nam và Đông Nam. Khu vực có dạng gò triền lượn sóng phân bố lớn ở các huyện Củ Chi, Hóc Môn, phía bắc quận Thủ Đức, quận 9, phía bắc huyện Bình Chánh. Cao độ từ 4–10 m chiếm khoảng 19% tổng diện tích; vùng có độ cao trên 10m chiếm 11% tổng diện tích. Khu vực địa hình dạng thấp phân bổ ở nội thành phố, phần đất của huyện Hóc Môn, quận Thủ Đức nằm dọc theo sông Sài Gòn và phần phía nam huyện Bình Chánh. Cao độ thay đổi từ 2–4 m chiếm khoảng 15% diện tích. Khu vực địa hình dạng trũng thấp tạo thành một vệt kéo dài từ phía nam huyện Củ Chi xã Thảo Mỹ, Tam Tân vòng về phía tây từ Bình Chánh dọc kênh An Hạ, Lê Minh Xuân, Tân Nhật, đến phía nam huyện Nhà Bè, Cần Giờ và đông nam huyện Bình Phước, huyện Bình Chánh. Cao độ từ 0–2 m chiếm khoảng từ 55% diện tích đất cao độ Quốc gia. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 13 Xét về điều kiện thủy văn Nằm ở vùng lưu vực hệ thống sông Đồng Nai–Sài Gòn, chế độ thủy văn–thủy lực của kênh rạch, sông ngòi không những chịu ảnh hưởng của địa hình thành phố phần lớn thấp dưới 2 m chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều biển Đông mà còn chịu tác động rất rõ nét của việc khai thác các hồ bậc thang ở thượng lưu hiện nay và trong tương lai như các hồ chứa Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ… Hệ thống sông rạch chằng chịt với tổng chiều dài km; tổng diện tích mặt nước chiếm 16%; mật độ dòng chảy trung bình 3,80 km2… Như vậy phần địa hình thấp trũng có độ cao dưới 02 m và mặt nước chiếm 61% diện tích tự nhiên, lại nằm trong vùng cửa sông với nhiều công trình điều tiết lớn ở thượng nguồn nên nguy cơ ngập úng lớn [1]. Về lượng mưa Tổng lượng mưa trung bình khá cao từ 1800 mm đến 2700 mm, tập trung vào 7 tháng từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm tới 90% lượng mưa. Về chế độ thủy văn Do trong năm có 2 mùa chính mùa mưa và mùa khô nên chế độ dòng chảy ở 2 hệ thống sông Sài Gòn và sông Đồng Nai cũng hình thành 2 chế độ dòng chảy tương ứng. Đồng thời do tác động của biển Đông nên các sông rạch của vùng nội thành chịu ảnh hưởng triều một cách mạnh mẽ và quanh năm. Triều cường vào mùa Xuân các tháng 10,11,12,1 dương lịch thời kỳ này được tăng cường bởi dòng lũ mùa mưa trên địa bàn nội thành nên triều cường thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 dương lịch [1, 2]. Về tình hình lún sụt tại Qua tổng hợp kết quả đo kiểm mốc độ cao khu vực và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long năm 2014, 2015 của Cục bản đồ đo đạc và bản đồ Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường cho thấy khu vực đang diễn ra với tốc độ lún lớn trên 10cm trong vòng 10 năm tại quận Bình Chánh, nam quận Bình Tân, quận 8, quận 7, đông quận 12, tây quận Thủ Đức, bắc huyện Nhà Bè với tổng diện tích 239 km2. Cá biệt có những nơi lún tới 73 cm/10 năm, từ năm 2005–2015. Tại mốc trên sân Trung tâm văn hóa Thể dục Thể thao tại phường An Lạc quận Bình Tân; 44 cm/10 năm mốc tại sân Trung tâm Y tế Bình Chánh, xã Tân Túc huyện Bình Chánh [1,3]. Qua nghiên cứu tình hình về điều kiện khí hậu, thủy văn khu vực kết quả quan trắc hiện tượng lún sụt, kịch bản nước biển dâng tại Việt Nam; có thể nói cuối thế kỷ này, toàn bộ những vùng đất có độ cao nhỏ hơn 4 m tại có nguy cơ ngập nước và những phần diện tích xây dựng không thuận lợi chiếm tới 60–70% tổng diện tích tự nhiên Nhiều khu vực của có mặt đất tự nhiên thấp khoảng 75% diện tích có cao độ dưới 2 m, lại nằm trong vùng ảnh hưởng mạnh bởi thủy triều biển Đông, nên hoàn toàn có thể bị ngập khi gặp đỉnh triều cao. Do biến đổi khí hậu, nước biển ngày càng dâng cao. mà hậu quả là tăng nguy cơ gây ngập cho khu vực cả về tần suất và mức độ [4]. Đặc biệt, trận siêu mưa vừa qua ngày 25 tháng 11 năm 2018, do ảnh hưởng của bão số 9 USAGI trên địa bàn Thành phố đã xuất hiện mưa từ lúc 07giờ 00 và đến 15giờ 00 phút bắt đầu xuất hiện mưa to trên diện rộng kết hợp với triều lên. Vũ lượng mưa lớn nhất đo được là 401 mm trạm Tân Sơn Hòa, đỉnh triều đo tại trạm Phú An là +1,29 m vào lúc 18 giờ 30 phút. Trong khi đó, tần suất thiết kế cống hiện nay ở đến năm 2020 Vũ lượng thiết kế với chu kỳ tràn cống đối với tuyến cống cấp 3 là mưa 75,88 mm; tuyến cống cấp 2 là mưa 85,36 mm; kênh, rạch chính cấp 1 là 95,91 mm trong 3 giờ; đỉnh triều thiết kế là +1,32 m. Từ thực tế trên cho thấy, ngập úng nặng tại không chỉ xẩy ra trong trường hợp tổ hợp bất lợi “lũ cao + triều cường + mưa lớn”, mà có thể còn xẩy ra ngay trong trường hợp lũ+triều bình thường nhưng gặp siêu mưa có lượng mưa ngấp nghé hoặc vượt xa lượng mưa thiết kế hệ thống cống thoát nước độ thị của thành phố hiện tại 200 mm/trận trong vài giờ. [4]. 2. Phương pháp nghiên cứu Lưu vực nghiên cứu Tình trạng ngập nước tại nói chung và trên lưu vưc Nhiêu Lộc–Thị Nghè đang là một trong những vấn đề quan tâm chính của các cấp chính quyền và nhân dân. Lưu vực Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 14 Nhiêu Lộc–Thị Nghè là khu vực có địa hình mặt đất tự nhiên thấp vì vậy là khu vực bị ngập thường xuyên, về mùa khô ngập do triều cường, về mùa mưa ngập do mưa lớn hoặc do mưa kết hợp với triều. Riêng khu vực quận Bình Thạnh, một quận nằm ở. Lưu vực rạch Văn Thánh, phía cuối của lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè tình trạng ngập lụt xảy ra nguy kịch nhất, có một bộ phận địa hình thấp trũng tiếp giáp với vùng có địa hình cao hơn, với diện tích ngập lụt do triều cường lên tới 30–50% diện tích tự nhiên. Tình trạng ngập úng đã ảnh hưởng nhiều đến các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của khu vực thêm vào đó tình hình ngập đang diễn biến ngày càng xấu đi [5]. Lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè thuộc khu vực trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích 3630 ha nằm trên địa bàn của 7 quận quận 1, 3, 10, Phú Nhuận, Tân Bình, Bình Thạnh và Gò Vấp, số dân sống trên lưu vực lên tới 1,2 triệu người. Rạch Văn Thánh thuộc kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè chiều dài khoảng 2000 m, chiều rộng của Rạch khoảng 15–30m. Lưu vực rạch Văn Thánh nằm ở phía Đông Bắc, ven sông Sài Gòn, phía cuối của lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè quận Bình Thạnh với diện tích khoảng 200 ha, tình trạng ngập lụt xảy ra ở lưu vực này là nguy kịch nhất, với diện tích ngập lụt do triều cường lên tới 30–50% diện tích tự nhiên Hình 1. Hình 1. Khu vực Văn Thánh thuộc lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè. Phương pháp nghiên cứu Các bài toán khoa học–kỹ thuật thường có thể được giải quyết theo ba phương pháp phương pháp quan sát–đo đạc thực tế, phương pháp mô hình vật lý và phương pháp mô hình toán. Đối với bài toán thoát nước đô thị này, phương pháp mô hình vật lý sẽ rất là khó khăn phức tạp, nếu không muốn nói là không thể được. Vì vậy trong luận văn, sẽ chỉ sử dụng phương pháp mô hình toán số mô hình PC. SWMM kết hợp với các dữ liệu quan sát–đo đạc thực tế. Đã có các báo cáo, nghiên cứu Báo cáo đặc biệt hữu ích do sử dụng SWMM trên khu vực đô thị với những đặc điểm tương tự kênh Tân Hóa–Lò Gốm. Đồng thời trình bày lại lượng mưa và các phân tích thủy văn khác cũng như chi tiết về phương pháp luận dòng chảy, được sử dụng cho việc áp dụng mô hình SWMM ở [6]; Mô hình tính Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 15 toán thoát nước mưa cho những đô thị chịu ảnh hưởng thủy triều [7], báo cáo đã tính toán thoát nước mưa cho những đô thị chịu ảnh hưởng thủy triều bằng một mô hình có sẵn–mô hình SWMM. Bên cạnh, tác giả cũng trình bày một số khía cạnh về thủy văn đô thị, chủ yếu theo quan điểm Âu–Mỹ; Nghiên cứu phương pháp phân vùng ngập và thoát nước đô thị nội thành [8]. Nghiên cứu hiện trạng tình hình ngập nước đô thị vị trí địa lý, địa hình, dân số, hệ thống thoát nước, tính chất mặt đệm ảnh hưởng đến sự hình thành dòng chảy, nhận định về yếu tố mặt đệm. Đồng thời đã đưa ra mô hình tính toán thủy lực hệ kênh rạch khu vực nội thành mô hình toán, phương pháp giải; Nghiên cứu, báo cáo Quy hoạch thủy lợi phục vụ tìm kiếm giải pháp chống ngập lụt cho [9]. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân và hiện trạng ngập ở lũ, mưa và các tổ hợp của chúng, nghiên cứu đã đề xuất các biện pháp kiểm soát lũ, kiểm soát triều nhằm giải quyết bài toán chống úng ngập cho toàn thành phố trong điều kiện có lũ lớn ở thượng lưu và nước biển dâng trong tương lai từ đó đề xuất các giải pháp. Hiện nay có nhiều mô hình khác nhau được nghiên cứu, ứng dụng và phát triển để phục vụ việc mô phỏng và đề xuất các giải pháp chống ngập đô thị trên thế giới, trong đó phải kể đến mô hình toán như Pervious and impervious runoff in urban catchments. Mưa và những độ sâu lớp nước chảy tràn được kiểm tra cho 763 trận bão trong 26 lưu vực đô thị ở 12 quốc gia. Có 17 lưu vực có những bề mặt không thấm là những nhân tố đóng góp chính cho dòng chảy mặt [10]; Nghiên cứu GIS Hệ thống thông tin địa lý hiện nay, đây là dự án thuộc khu vực Tweed vùng biển bắc New South Wales. Nội dung chính tập trung vào những vấn đề quản lý thoát nước kết hợp với những mô hình thủy lực cho phép mô phỏng động lực học của hệ thống thoát nước tương ứng với trường hợp dòng chảy mặt do mưa [11]. Những nghiên cứu thủy văn của những quá trình mưa–dòng chảy mặt cung cấp cơ sở cho việc ước lượng thiết kế dòng chảy trong những hệ thống thoát nước đô thị. Hệ thống mà kiểm soát lũ, chuyển tải bùn tải và các chất ô nhiễm. Bài báo phát thảo lý thuyết của những quá trình mưa–dòng chảy mặt và định rõ sự phát triển của mô hình thực tiễn và hiện tại sử dụng cho việc tính toán những mô hình [12]; Mô hình thoát nước đô thị nhiều cấp [10]. Nghiên cứu sử dụng hệ thống thoát nước kép, mạng lưới kênh hở phía trên mặt đường, hệ thống cống kín phía dưới để giảm lưu lượng đỉnh của hệ thống. Đặc biệt trong mô hình này nghiên cứu thấy được mối quan hệ thủy động lực giữa những dòng chảy ở mạng trên và mạng dưới [5]. Ngoài ra, các mô hình được sử dụng rộng rãi như mô hình Storm Storage, Treatment, Overflow, Runoff Model, mô hình HEC–HMS, mô hình TOPMODEL, mô hình Mouse, mô hình MIKE Urban, ... Trong nghiên cứu này sẽ ứng dụng mô hình để mô phỏng mức độ ngập và đề xuất các giải pháp cho tiểu lưu vực rạch Văn Thánh thuộc lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè. Cơ sở lý thuyết mô hình SWMM SWMM Storm Water Management Model được xây dựng ở hai trường đại học San Phansico và Florida Mỹ do cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ EPA xây dựng từ năm 1971–1999 để mô phỏng chất và lượng nước của lưu vực thoát nước đô thị và tính toán quá trình chảy tràn từ mỗi lưu vực bộ phận đến cửa nhận nước của nó. Mô hình quản lý nước mưa SWMM là một mô hình toán học toàn diện, dùng để mô phỏng khối lượng và tính chất dòng chảy đô thị do mưa và hệ thống cống thoát nước thải chung. Mọi vấn đề về thuỷ văn đô thị và chu kỳ chất lượng đều được mô phỏng, bao gồm dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm, vận chuyển qua mạng lưới hệ thống tiêu thoát nước, hồ chứa và khu xử lý. Mô hình bao gồm các khối sau 1 Khối “dòng chảy” Runoff block tính toán dòng chảy mặt và ngầm dựa trên biểu đồ quá trình mưa và/hoặc tuyết tan hàng năm, điều kiện ban đầu về sử dụng đất và địa hình; 2 Khối “truyền tải” Transport block tính toán truyền tải vật chất trong hệ thống nước thải; 3 Khối “chảy trong hệ thống” Extran block diễn toán thủy lực dòng chảy phức tạp trong cống, kênh…; 4 Khối “Trữ/xử lý“ Strorage/Treatment block Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 16 biểu thị các công trình tích nước như ao hồ…và các công trình xử lý nước thải, đồng thời mô tả ảnh hưởng của các thiết bị điều khiển dựa trên lưu lượng và chất lượng các ước toán chi phí cơ bản cũng được thực hiện; 5 Khối “nhận nước” Receiving block Môi trường tiếp nhận Hình 2. Hình 2. Các thành phần trong hệ thống mô phỏng SWMM. Modul EXTRAN, module chính của SWMM, là mô hình tính toán thủy lực dòng chảy trong hệ thống lòng dẫn hở và/hay kín. Module này nhận dữ liệu thủy văn tại những vị trí nút ấn định trước từ module trước đó ví dụ module RUNOFF và/hay từ dữ liệu do người sử dụng nhập trực tiếp. Hệ phương trình đạo hàm riêng cơ bản cho hệ thống dòng chảy trong cống thoát nước xuất phát từ hệ phương trình dòng không ổn định 1D Saint–Venant. a. Phương trình liên tục của dòng không ổn định AAVV At x x   1 Trong đó A là diện tích mặt cắt ngang; V là lưu tốc trung bình mặt cắt ngang dòng chảy; x là khoảng cách dọc theo lòng dẫn; t là thời gian. Gọi Q là lưu lượng dòng chảy V = Q/A 2 Thay 2 vào 1, tìm được A Qt x  3 b. Phương trình động lượng của dòng không ổn định 1f oS S    4 Trong đó Sf là độ dốc thủy lực; So là độ dốc đáy; g là gia tốc trọng trường. Từ 2 và 4, tìm được 2 / fQ Q A HgA gASt x x     5 Trong đó H = z + h là cột nước đo áp z là cao độ đáy, h là chiều sâu nước; Độ dốc đáy So = dz/dx được bao hàm trong gradient của H. Ta có phương trình động lượng được dùng trong các ống và phương trình liên tục được Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 17 dùng tại các nút. Như vậy động lượng được bảo toàn trong ống và liên tục tại nút. Phương trình động lượng kết hợp với phương trình liên tục dưới dạng sau 2fQ A A HgAS V V gAt t x x    6 Trong 10, độ dốc thủy lực được xác định nhờ biểu thức Manning 24/ 3fnAR 7 Trong đó n là hệ số nhám Manning; R là bán kính thủy lực. Dấu giá trị tuyệt đối trong 7 làm cho Sf là một đại lượng có hướng và bảo đảm rằng lực ma sát luôn luôn ngược chiều dòng chảy. Như vậy phương trình cuối cùng để giải là 224/3Q gn A A HQ V V V gAt R t x x       8 Sử dụng phương pháp sai phân hữu hạn với sơ đồ hiện áp dụng vào phương trình 12, sau một số biến đổi ta nhận được phương trình rời rạc sau đây 22 122 14/3211ttt tA A AQ V t V tt LQgn H HgA tR V L        9 Trong đó Qt+t và Qt lần lượt là lưu lượng ở cuối và đầu thời đoạn t; là trung bình có gia trọng của những giá trị tương ứng ở hai đầu ống vào thời điểm t; A/t t là đạo hàm theo thời gian của A từ bước thời gian trước. Các ẩn số trong 13 là Qt+t , H2 và H1. Các đại lượng đều có quan hệ với Q và H. Do đó, ta cần có một phương trình liên hệ giữa Q và H. Đó chính là phương trình liên tục tại một nút H/t = Q/As 10 hay dưới dạng sai phân Ht+t = Ht + Qt t /Ast 11 Với As là diện tích mặt thoáng của nút. Các phương trình 9 và 11 có thể được giải liên tiếp nhằm xác định lưu lượng trong mỗi ống và cột nước tại mỗi nút cho mỗi bước thời gian t. Ưu điểm của phương pháp sai phân hữu hạn theo sơ đồ hiện là đơn giản, dễ lập trình trên máy tính nhưng có nhược điểm là bị hạn chế về bước thời gian. Để bảo đảm sự ổn định của lời giải số, bước thời gian t phải thỏa mãn điều kiện Courant sau đây * Đối với ống t  L / gD1/2 12 Trong đó D là chiều sâu tối đa trong ống. Vế phải của 16 là thời gian cần cho một sóng động lực truyền trên chiều dài L của ống. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 18 * Đối với nút t  0,1 As Hmax / Q 13 Trong đó Hmax là độ dâng lớn nhất của mặt nước trong một bước thời gian; Q là tổng lưu lượng thực chảy vào nút. Bước thời gian t được chọn sẽ là giá trị nhỏ nhất trong hai giá trị cho bởi 12 và 13. Theo kinh nghiệm, t = 15–30 giây là thích hợp. 3. Kết quả và thảo luận Mô phỏng ngập lụt hiện trạng Cơ sở dữ liệu a. Biên mực nước Dao động mực nước theo triều được gán tại nút 135, giao của rạch Nhiêu Lộc–Thị Nghè với sông Sài Gòn là mô hình triều tiêu được tính toán trên mô hình tổng thể ứng với mực nước sông Sài Gòn tại trạm Phú An tương ứng với tần suất thiết kế là 10% Hình 3. Hình 3. Quá trình mực nước triều đặc trưng ngày 28/10/2007. Hình 3. Biểu đồ mưa thiết kế. b. Mô hình mưa thiết kế Mô hình mưa được sử dụng trong tính toán được lấy theo trạm Tân Sơn Nhất với chu kỳ tràn cống lặp lại là 3 năm Hình 4. c. Các thông số khác Lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè có tổng diện tích khoảng 3630 ha chảy qua 7 quận 1, 3, 10, Tân Bình, Phú Nhuận, Gò Vấp, Bình Thạnh. Độ dốc địa hình của từng tiểu lưu vực trong lưu vực được xác định trực tiếp trên bản đồ số hóa của lưu vực. Tỉ lệ phần không thấm so với tổng diện tích được ước tính theo cơ cấu sử dụng đất về lâu dài là 55–85%. Giả thiết bỏ qua bốc hơi do thời đoạn tính toán ngắn. Các số liệu về mặt cắt các tuyến kênh rạch được lấy theo dự án vệ sinh môi trường Nhiêu Lộc–Thị Nghè. Cao độ mặt đất được lấy theo cao độ tự nhiên xác định trên bản đồ số hóa, tuy nhiên đối với vùng trũng thấp, cao độ mặt đất được giả định bằng cao độ san nền tối thiểu +2m theo quyết định số 752/QĐ–TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 19/06/2001 về việc phê duyệt Quy Hoạch tổng thể hệ thống thoát nước TP HCM đến năm 2020. Hệ thống cống thoát nước Rạch Văn Thánh thuộc kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè nằm ở phía cuối kênh, tình trạng ngập úng xảy ra ở lưu vực rạch Văn Thánh xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng mỗi khi triều lên, mưa xuống và đặc biệt là khi mưa triều kết hợp. Bên cạnh 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24Giờ Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 19 địa hình ở lưu vực này tương đối thấp chịu ảnh hưởng của sông Sài Gòn và các lưu vực xung quanh. Do đó, để giải quyết bài toán ngập cho lưu vực này ta cần giải quyết trên phương diện tổng thể cụ thể là tính cho toàn bộ lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè. Toàn bộ lưu vực được sơ đồ hóa thành 220 nút, 119 tiểu lưu vực, 221 tuyến cống với biên mực nước được gán tại nút 135 giao giữa kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè với sông Sài Gòn. Với sơ đồ hiện trạng như sau hình 5. Hình 5. Sơ đồ thủy lực phương án hiện trạng. Kết quả hiệu chỉnh, kiểm định mô hình Dùng phương án hiện trạng để kiệm nghiệm mô hình bằng cách so sánh những điểm ngập có được từ việc mô phỏng bằng mô hình với điểm ngập từ khảo sát thực tế. Sau khi tiến hành mô phỏng lưu vực bằng mô hình PC. SWMM kết quả tính toán cho thấy với kích thước kênh, cống như trong hiện trạng, dòng chảy mặt đất hình thành khắp nơi trong lưu vực và tràn về khu vực trũng thấp gây ngập kéo dài tại nhiều nơi. Kết quả mô phỏng và so sánh với thực tế được gọi là phương án hiện trạng. Kết quả được thể hiện trong hình 6. Dựa vào kết quả trên, ta so sánh số điểm ngập từ khảo sát thực tế trùng với kết quả từ việc chạy mô hình là 32 với số điểm ngập có được do chạy mô hình 50, như vậy tỉ lệ mô phỏng thành công của mô hình khoảng 64%. Với hệ số Nash giữa thực đo và mô phỏng của 32 điểm ngập đạt 0,96. Với kết quả hiệu chỉnh hiện trạng, cho thấy mô hình có khả năng tái hiện tình hình ngập ở lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 20 Hình 6. Biểu đồ so sánh các node ngập mô phỏng và thực tế. Mô phỏng giải pháp thoát nước chống ngập Nghiên cứu đã thiết lập vận hành cống kiểm soát triểu Nhiêu Lộc–Thị Nghè ứng với các kịch bản sau – Kịch bản tăng diện tích bề mặt thấm cho lưu vực; – Kịch bản xây dựng hồ điều hòa phân tán. Giải pháp cải tạo mặt phủ đô thị Nước mưa rơi xuống đất chia làm ba thành phần chính một phần ngấm xuống đất bổ sung cho nguồn nước ngầm, một phần bốc hơi lên tạo thành mây, phần còn lại tạo thành dòng chảy chảy vào hệ thống thoát nước mưa. Việc đô thị hóa–bê tông hóa–Thành phố Hồ Chí Minh đã làm giảm đáng kể bề mặt thấm của lưu vực, làm thay đổi hệ số dòng chảy góp phần làm tăng dòng chảy tràn và tình trạng ngập của lưu vực. Do đó, tăng diện tích bề mặt thấm nhằm giảm thiểu tình hình ngập hiện nay cho lưu vực, đồng thời bổ sung trữ lượng cho nước ngầm là một giải pháp cần xem xét. Cụ thể nghiên cứu tiến hành giảm diện tích phần không thấm với các trường hợp 85%, 75%, 65%, 55%, 45%, 35%, 25% dưới ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu dự kiến mưa tăng 0,8mm/năm, triều tăng 1cm/năm theo thời gian biểu kiến. – Dữ liệu mực nước triều được tính toán cho các năm 2019, 2029, 2039, 2049 và 2059; – Dữ liệu mưa thiết kế dự kiến 180 phút – 3 năm – bước thời gian 15 phút Bảng 1. Kết quả mô phỏng về mối tương quan giữa phần trăm diện tích không thấm và số điểm ngập ứng với từng năm như hình 7 và hình 8. Bảng 1. Bảng mô hình mưa thiết kế dự kiến ứng với biến đổi khí hậu. Giờ Mô hình mưa thiết kế dự kiến ứng với biến đổi khí hậu 2019 2029 2039 2049 2059 1200 1215 1230 y = + = 50 100 150 200 250 300 350Thời gian ngập thực tế phútThời gian ngập mô phỏng phút Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 21 Giờ Mô hình mưa thiết kế dự kiến ứng với biến đổi khí hậu 2019 2029 2039 2049 2059 1245 1300 1315 1330 1345 1400 1415 1430 1445 Hình 7. Diễn biến số điểm ngập trường hợp thay đổi % thấm. Hình 8. Diễn biến số thời gian ngập trường hợp thay đổi % thấm. Thấy rằng giải pháp cải tạo mặt phủ đô thị tăng phần diện tích thấm có tác dụng nhất định trong việc giảm thiểu tình trạng quá tải của cống trong tương lai khi vũ lượng mưa tăng dần theo thời gian. Tuy nhiên trên thực tế giải pháp này không mang lại hiệu quả cao, thời gian ngập và số điểm ngập giảm không bao nhiêu khi thay đổi mặt phủ đô thị mặc dù ta tiến hành quy hoạch đô thị đến 25% diện tích không thấm. Bên cạnh, Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè nói riêng việc giảm diện tích không thấm một cách đáng kể 25% là không khả thi và không thực hiện được. Giải pháp hồ điều hòa Sau khi đánh giá thực trạng tiêu thoát nước, nghiên cứu các kế họach phát triển và hệ thống dữ liệu, nghiên cứu tiến hành quy họach xây dựng hồ điều hòa cho lưu vực. Ngoài chức năng chính là góp phần giảm thiểu ngập lụt, hồ điều hòa còn cải tạo cảnh quan, môi trường, là điểm vui chơi của người dân trong vùng. Trong tương lai không xa, khi mà nguồn nước ngọt hạn chế, hồ điều hòa còn có thêm nhiệm vụ cung cấp nước cho đời sống và sản xuất. Các tiêu chí chọn vị trí hồ điều hòa được xem xét về cao độ, dòng chảy, dân cư và công trình xung quanh. Với tiêu chí trên nghiên cứu tiến hành quy hoạch bố trí hồ điều hòa và tính thử dần dưới ảnh hưởng của mưa và triều theo thời gian ứng với quy hoạch đô thị. 051015202530354045502019 2029 2039 2049 2059NămSố đi ểm n gậ 2029 2039 2049 2059Th ời gian n Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 22 Ví dụ điển hình như trường hợp 85% không thấm ứng với năm 2059 nghiên cứu bố trí 12 hồ điều hòa, trong đó có tận dụng hồ Văn Thánh như là một hồ điều tiết nước Bảng 2, Hình 9. Bảng 2. Bảng kích thước hồ trường hợp 85% không thấm năm 2059. STT Rộng m Dài m Sâu m Diện tích hồ ha 1 200 440 2 500 840 42 3 100 270 4 300 550 5 300 520 6 250 460 7 200 290 8 500 890 9 300 490 10 200 360 11 200 450 9 12 200 410 Tổng cộng Hình 9. Sơ đồ vị trí hồ điều hòa trường hợp 85% năm 2059. Sau khi bố trí nghiên cứu tiến hành mô phỏng và tính thử dần thể tích hồ cho đến khi hết ngập hoàn toàn cho lưu vực theo quy hoạch đô thị dưới sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu mưa và triều tăng như dự kiến với các thời điểm, được kết quả thể hiện trên hình 10, hình 11. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 23 Hình 10. Diễn biến số điểm ngập theo V hồ trường hợp 85% không 11. Diễn biến thời gian ngập theo V hồ trường hợp 85% không 3. Diện tích hồ cần thiết để xóa ngập. Năm V hồ 85% 75% 65% 55% Đơn vị % ha % ha % ha % ha 2019 62 58 46 40 2029 82 75 62 56 2039 131 111 95 87 2049 181 169 153 136 2059 186 180 159 152 Qua kết quả trên nghiên cứu thấy hồ điều tiết là một giải pháp mang lại hiệu quả cao, chỉ với 186 ha trường hợp bất lợi nhất có thể cơ bản xóa ngập hoàn toàn cho lưu vực. 186 ha là một diện tích không nhỏ nhưng so với tổng diện tích lưu vực chỉ chiếm khoảng 5% thì không đáng kể so với hiệu quả mà nó mang lại. Ứng với từng thời điểm xác định và theo từng quy hoạch đô thị nghiên cứu có diện tích hồ cần thiết để xóa ngập cho lưu vực. 4. Kết luận Mô hình SWMM được sử dụng để mô phỏng chất và lượng nước của lưu vực thoát nước đô thị và tính toán quá trình chảy tràn từ mỗi lưu vực bộ phận đến cửa nhận nước của nó. Hơn nữa mô hình quản lý nước mưa SWMM là 1 mô hình toán học toàn diện, dùng để mô phỏng khối lượng và tính chất dòng chảy đô thị do mưa và hệ thống cống thoát nước thải chung. Mọi vấn đề về thuỷ văn đô thị và chu kỳ chất lượng đều được mô phỏng, bao gồm dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm, vận chuyển qua mạng lưới hệ thống tiêu thoát nước, hồ chứa và khu xử lý. Nghiên cứu đã ứng dụng cho khu vực Văn Thánh thuộc lưu vực Nhiêu Lộc–Thị Nghè với kết quả mô phỏng hiện trạng ở mức tốt. Trên cơ sở đó nghiên cứu sử dụng bộ thông số để tính toán cho các kịch bản giảm ngập khi cống kiểm soát triều Nhiêu Lộc–Thị Nghè hoạt động ứng với 2 giải pháp là cải tạo mặt phủ đô thị và xây dựng hồ điều hòa. Kết quả cho thấy giải pháp hồ điều hòa có tính hiệu quả và khả dĩ hơn so với giải pháp cải tạo mặt phủ đô thị. Tuy nhiên mỗi phương án đều có những mặt trái của nó. Vì thế để có được một phương án tối ưu nhất đối với khu vực Văn Thánh thì cần có thêm các nghiên cứu và đánh giá chuyên sâu khác để hiệu quả nhất về kinh tế và xã hội. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 24 Đóng góp của tác giả Xây dựng ý tưởng nghiên cứu Lựa chọn phương pháp nghiên cứu Xử lý số liệu Mô hình hóa Phân tích kết quả Chỉnh sửa bài báo Lời cam đoan Tập thể tác giả cam đoan bài báo này là công trình nghiên cứu của tập thể tác giả, chưa được công bố ở đâu, không được sao chép từ những nghiên cứu trước đây; không có sự tranh chấp lợi ích trong nhóm tác giả. Tài liệu tham khảo 1. Sở Quy hoạch – Kiến trúc TPHCM. Giải pháp hạn chế tình trạng ngập lụt tại và tình hình biến đổi khí hậu trong tương lai. 2017. Trang online 2. Dũng, Anh, Hà, Đánh giá biến động tài nguyên nước lưu vực sông Đồng Nai và vùng phụ cận. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường 2014, 47, 1–9. 3. Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo tình hình sụt lún khu vực và ĐBSCL, 2016. Trang online 4. Trường, Nhìn lại bài toán ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh, 2018. Trang online 5. Nữ, Nghiên cứu giải pháp thoát nước chống ngập cho lưu vực rạch Văn Thánh Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ kỹ thuật Đại học Bách Khoa 2010. 6. Dresser, C.; McKee International. Nghiên cứu khả thi và thiết kế sơ bộ dự án Thoát nước Lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Tài liệu báo cáo kết quả nghiên cứu giai đoạn thiết kế khả thi thuộc dự án Thoát nước lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè, 1999. 7. Điềm, Sơn, Mô hình tính toán thoát nước mưa cho những đô thị trong vùng bị ảnh hưởng thủy triều. Trường đại học Bách Khoa TP HCM, 2002. 8. Hiếu, Nghiên cứu phương pháp phân vùng ngập và thoát nước đô thị nội thành 2000–2002. Báo cáo tổng kết đề tài Phân viện Khí tượng Thủy văn và BĐKH. 9. Vấn, Quy hoạch thủy lợi phục vụ tìm kiếm giải pháp chống ngập lụt cho TP. Hồ Chí Minh. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2008. 10. Boyd, Bufill, Knee, Pervious and impervious runoff in urban catchments. Hydrol. Sci. J. 1993, 38, 463–478. 11. Zhou, Q.; Yang, X.; Melville, A GIS network model for sugarcane field drainage management 1996, School of Geography, University of New South Wales Sydney 2052, Australia. Proceedings of 8th Australasian Remote Sensing Conference, 25–29 March 1996, Canberra, 1996, 2, 366–372. 12. O’Loughlin, G.; Huber, W.; Chocat, B. 1996, Rainfal – runoff process and modeling. J. Hydraul. Res. 1996, 34, 733–751. Tạp chí Khí tượng Thủy văn 2020, 716, 12-25; doi 25 Calculation of current flooding level and solutions to flooding prevention in Van Thanh area – Ho Chi Minh City Hoang Thi To Nu1*, Can Thu Van1 1 HCMC University of Natural Resources and Environment; ctvan Abstract Ho Chi Minh City HCMC is defined as an economic center, an international trading, and tourism center of Vietnam. With the rapid urbanization process which has many negative impacts on infrastructure, the urban flooding in the city is one of the most painful problems in recent years. Nhieu Loc–Thi Nghe basin which spread over 7 districts of Ho Chi Minh City is one of the places where the depth of flooding is high. This study applied the SWMM model to simulate the process of producing rainwater runoff and stormwater drainage in the basin, thereby proposing solutions to reduce flooding. The research results show that water regulation is more effective than the solution to improve the urban surface. The scenarios show that with 186 ha of the reservoir area, it is possible to eradicate the flooding in Van Thanh area of Nhieu Loc–Thi Nghe basin. Keywords Urban flooding in Ho Chi Minh City; SWMM model. ... Trên thế giới, mô hinh SWMM đã được nghiên cứu và sử dụng từ lâu Nghiên cứu sử dụng mô hình SWMM để đánh giá tác động của LID trong khu vực đô thị [13]; Nghiên cứu ứng dụng mô hình SWMM đánh giá hiệu quả của giải pháp vườn mưa tại Nhật Bản [9]; Các nghiên cứu dùng để đánh giá vấn đề về BĐKH ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng đô thị bị xuống cấp ở nhiều khu vực [14]. Một số kết quả nghiên cứu SWMM ở Việt Nam có thể kể đến là Nghiên cứu mô phỏng thoát nước đô thị ở Huế trong trận mưa tháng 10 năm 2019 [15]; Nghiên cứu ứng dụng mô hình SWMM để đánh giá tính khả thi của SUDS tại lưu vực kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè, [16]; Nghiên cứu mô phỏng mức độ ngập và đề xuất giải pháp chống ngập cho khu vực Văn Thánh, [17]; Mô hình SWMM còn ứng dụng trong phân tích mạng lưới thoát nước khu đô thị mới ở Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, [18]. ...Nguyen Thi Mai Lan Dung Duc TranChau Nguyen Xuan QuangLưu Văn TấnThe uncontrolled urbanization and the situation of climate change are one of the causes of local inundation. This study aims to evaluate the applicability of the Sustainable urban drainage solution SUDS in the urbanizing area, Binh Chanh district. The Storm Water Management Model EPA–SWMM is used to simulate two scenarios for applying SUDS solutions The scenario of increasing temporary storage capacity for reuse rainwater Scenario 1 and reducing peak discharge of stormwater runoff Scenario 2, design SUDS selection criteria combined with a survey of 30 households, 10 experts and local government to assess the applicability of SUDS. The simulation results of the scenario have brought about a significant flood reduction effect Scenario 1 with flooding time decreased by 2,68%, and the total flood volume was reduced by 0,52%, and scenario 2 with flooding time decreased by 22,85%, and the total flood volume was reduced by 17,24%. Furthermore, based on the suitability with the proposed SUDS selection criteria with the survey of stakeholders, our results indicate that the porous pavements and rain gardens solutions were the most popular and suitable for the study area, followed by the rainwater harvesting finally the green. The study results indicate that the SUDS have a significant flood reduction effect, supporting urban flood risk management more efficiently. Link arcticle Thanh Ngân Nguyen Hieu TrungNinh Kieu District is an urban district with a rapid urbanization rate and a complex dimension. This factor has made urban flooding in this district very serious. Metro Residential Area is one of the areas currently being strongly affected by urban flooding in Ninh Kieu District. This research is conducted to apply GIS and SWMM model to assess urban flooding in Metro Residential Area. GIS is used to digitize the drainage system, while SWMM model is used to simulate urban flooding in the study area. Research results have shown the flood level, flood time, flood volume, flow velocity and frequently flooded locations in Metro Residential Area. This is an important basis for the development of solutions to reduce flooding, thereby reducing the impact of urban flooding and improving the quality of life of the residential community living in the study Bufill Ross KneeFor all 26 basins, plots of rainfall and runoff depths were used to estimate the effective impervious area and the impervious area initial loss. The data plotted close to a single straight line on all basins, indicating that the effective impervious area remained constant for all storm sizes. The effective impervious fraction was related to total impervious area and the directly connected impervious fraction estimated from maps. For the basins with pervious runoff, the depth of rain in the storm was the most important factor in determining pervious runoff for rainfall less than 50 mm, while for larger storms other factors including rainfall intensity and antecedent wetness were also found to be significant. -from AuthorsĐánh giá biến động tài nguyên nước lưu vực sông Đồng Nai và vùng phụ cậnĐ Đ DũngN N AnhĐ T HàDũng, Anh, Hà, Đánh giá biến động tài nguyên nước lưu vực sông Đồng Nai và vùng phụ cận. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường 2014, 47, lại bài toán ngập lụt Thành phố Hồ Chí MinhT V TrườngTrường, Nhìn lại bài toán ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh, 2018. Trang online hình tính toán thoát nước mưa cho những đô thị trong vùng bị ảnh hưởng thủy triềuN V ĐiềmH T SơnĐiềm, Sơn, Mô hình tính toán thoát nước mưa cho những đô thị trong vùng bị ảnh hưởng thủy triều. Trường đại học Bách Khoa TP HCM, hoạch thủy lợi phục vụ tìm kiếm giải pháp chống ngập lụt cho TPT C VấnVấn, Quy hoạch thủy lợi phục vụ tìm kiếm giải pháp chống ngập lụt cho TP. Hồ Chí Minh. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn network model for sugarcane field drainage managementQ ZhouX YangM D MelvilleZhou, Q.; Yang, X.; Melville, A GIS network model for sugarcane field drainage management 1996, School of Geography, University of New South Wales Sydney 2052, Australia. Proceedings of 8 th Australasian Remote Sensing Conference, 25-29 March 1996, Canberra, 1996, 2, -runoff process and modelingG O'loughlinW HuberB ChocatO'Loughlin, G.; Huber, W.; Chocat, B. 1996, Rainfal -runoff process and modeling. J. Hydraul. Res. 1996, 34, 733-751. ĐCSVN - Thay vì nạo vét kênh mương, tôn cao mặt đường, xây dựng hệ thống kênh thoát nước lớn... KS. Nguyễn Thanh Tuấn Kiệt đề xuất 2 thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nên xây dựng các hầm chứa nước mưa để chống ngập. Hiện nay tình hình ngập nước ở các tuyến đường tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh rất nghiêm trọng. Cơn mưa lớn chiều tối ngày 22/10/2014 tại đã làm cho giao thông trên các con đường gần như tê liệt hoàn toàn. Việc mở rộng kênh, làm ống cống tiêu thoát nước cũng phải tốn kém rất nhiều tiền để xây dựng, đền bù, giải tỏa và thời gian. Thực tế qua thời gian Kênh Nhiêu Lộc sau khi được cải tạo, hoặc kênh Hàm Tử chỉ thoát được lượng nước mưa ở mức độ trung bình, còn khi mưa lớn thì hoàn toàn mất tác dụng. Giải pháp nâng cao nền đường cũng chỉ làm cho nước chảy từ nơi cao sang nơi thấp trũng khác. Lượng nước mưa tiêu thoát ra kênh rạch, biển cũng rất lãng phí. Việc nạo vét kênh, làm cống thoát nước lớn hơn cũng không thể giải quyết được vấn đề thoát nước khi mưa lớn vì mặt bằng địa hình Hà Nội, TPHCM có những nơi bị trũng, thấp hơn mặt bằng của sông, suối kiểu 2 bình thông nhau mà có độ cao không chênh lệch thì nước sẽ không thể chảy nhanh. Mặc khác khoảng cách từ trung tâm, khu vực bị ngập nước mưa ra đến bên ngoài khu vực thoát nước ra cửa sông, biển quá xa, dẫn đến dòng chảy yếu, việc tiêu thoát trong thời gian ngắn nhất không thể được, dẫn đến úng ngập cục bộ. Trước thực trang trên KS. Nguyễn Thanh Tuấn Kiệt đề xuất một ý tưởng có thể làm giảm việc ngập nước như sau Xây dựng các bể chứa nước ngầm có thành bể cao hơn mặt đường để chứa nước mưa. Tính toán dung tích bể chứa và số lượng hợp lý để đủ sức chứa lượng nước trên tương đương lượng nước mưa có thể ngập đường ở mức độ cao 400-500mm và diện tích mặt đường. Sử dụng các trạm bơm công suất lớn bơm lượng nước ngập vào bể dụng lượng nước này cho hệ thống phòng cháy chữa cháy cục bộ tại các khu dân cư rất hữu dụng, hoặc cấp nước cho các xe tưới cây của công viên cây xanh, tưới cây xanh dọc theo tuyến đường. Như vậy sẽ không bị lãng phí nguồn tài nguyên địa điểm xây dựng bể chứa nước mưa ngầm Các bến xe, công viên cây xanh, sân vận động, khu vui chơi giải trí, khu quảng trường, khuôn viên trường đại học, trường PTTH, vỉa hè và kể cả những con đường nhỏ cấm xe tải đi làm hầm ngầm bên dưới, xe vẫn lưu thông bên trên bình thường. Do đây là quỹ đất công nên khi xây dựng sẽ không tốn tiền đền bù và giải phóng mặt bằng. Về khai thác đưa vào sử dụng hiệu quả Sau khi xây dựng và đưa vào vận hành, trách nhiệm bảo quản, giữ gìn và vận hành có thể giao cho công ty công viên cây xanh. Cho đấu thầu gắn bản quảng cáo xung quanh các sân vận động, bến xe… trên những bể chứa nước ngầm đó. Số tiền thu lại sẽ trang trải tiền xây dựng ban đầu và vận hành bảo dưỡng hệ thống máy bơm. Hoặc thu tiền từ công ty công viên cây xanh cho việc sử dụng hội hoá việc chống ngập cho thành phố để tiết kiệm tiền ngân sách Theo KS. Nguyễn Thanh Tuấn Kiệt, đã đến lúc chúng ta cần phải xã hội hóa việc chống ngập nước cho Chí Minh, nghĩa là cho mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp cùng tham gia thay vì phải dùng ngân sách là tiền thuế của dân như hiện nay. Tức là doanh nghiệp được giao quỹ đất công, hoặc phần không gian phía bên trên hầm chứa nước để khai thác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định nào đó sau khi họ đã bỏ tiền ra đầu tư xây dựng hệ thống hầm chứa nước mưa để chống ngập khu vực đó. Thành phố có thể cho tổ chức cho đấu thầu gắn bảng quảng cáo Bảng điện tử có thông tin kinh tế, thời sự đi kèm và quảng cáo... xung quanh các sân vận động, bến xe… trên những bể chứa nước ngầm đó. Sơ đồ hầm chứa nước hợp các giải pháp đồng bộ khác Bên cạnh đó cũng cần có kết hợp những giải pháp khác như khai thông kênh, nạo vét cống thoát nước mưa ra sông, ra suối. Về diện tích làm hầm chứa có thể tận dụng ngay diện tích mặt đường lưu thông làm hầm, bể chứa nước bên dưới. Lưu ý là chỉ xây dựng các bể chứa, hầm chứa tại những tuyến đường giao thông nhỏ, ít xe tải trọng nặng để giảm chi phí xây dựng làm nắp bê tông của hầm chứa nước, bên dưới có nhiều vách ngăn, trụ chống và dầm chịu lực khẩu độ thấp thì chi phí sẽ rẻ hơn nhiều. Tất nhiên là hầm chứa nước mưa ngầm phải kết hợp hệ thống xử lý nước trước khi đưa vào tưới cây hoặc hệ thống phòng cháy chữa cháy./. Bê tông thấm, tiêu nước - Ảnh Bài tham dự Diễn đàn chống ùn tắc giao thông đô thị do Báo Giao thông cùng cộng đồng Otofun phối hợp tổ chức, Tập đoàn Hyundai Thành Công đồng hành tài trợ. Ý kiến đóng góp xin gửi về Chonguntac và news Ở các thành phố lớn, nhất là và Hà Nội giờ cứ mưa là ngập rồi gây ra ùn tắc. Ngoài vấn đề triều cường và biến đổi khí hậu, còn một khoảng trống rất lớn, không ai chú ý trong chiến lược quy hoạch các thành phố của Việt Nam. Đó là việc quy định để thẩm định các vật liệu thấm nước khi cấp phép thi công, xây dựng cơ sở hạ tầng, dân dụng... Cả thành phố là chậu bê tông khổng lồ không thấm nước Tôi khẳng định, hiện không có một văn bản pháp luật nào quy định để thẩm định vật liệu thấm nước trước khi cấp phép. Các thành phố hiện nay ngoài việc chưa đồng bộ trong quy hoạch, quy trình cấp phép xây dựng các cơ sở hạ tầng, dân dụng... cũng không có một quy định pháp luật nào bắt buộc phải thẩm định các loại vật liệu lót nền, thảm mặt bằng... phải là vật liệu thấm nước. Hậu quả là Nhà nước cùng với các chủ đầu tư ngày càng kiên cố hóa bê tông các mặt bằng của thành phố, khiến thành phố trở thành một chậu bê tông không thấm nước cực lớn. Thành phố mở rộng đến đâu ngập đến đó. Các cống thoát nước, sông hồ không giải tỏa được áp lực nước dồn lại của chậu bê tông khổng lồ kia. Khi giải quyết được vấn đề này, rõ ràng không còn một trở ngại nào cho việc thấm tiêu của tất cả các công trình xây dựng trên thành phố, không còn chuyện thành phố mở rộng đến đâu lại ngập và ùn tắc đến đó. Bê tông hóa các thành phố tại Việt Nam đã vượt ngưỡng giới hạn. Đến lúc phải chỉ rõ đây là thiếu sót căn bản trong chiến lược quy hoạch các thành phố và nó luôn thường trực ngập cục bộ sau mưa vì không thể thẩm thấu được tự nhiên, tăng áp lực lên các cống thoát nước. Thành phố cũng đang lún dần vì tầng nước ngầm không được bồi thấm tự nhiên. Còn cư dân thành phố sống trong nóng bức của thảm bê tông, vì không có hơi nước bốc lên từ các mặt bằng để giải nhiệt trong mùa nắng. Để khắc phục hậu quả của sự thiếu sót trong quy hoạch này cần một việc làm rất tốn kém. Thế nhưng, nếu không làm, dù có đổ vào đây bao nhiêu tiền để nâng cấp các cống thoát nước, nạo vét sông, hồ... thành phố vẫn ngập và ùn tắc ngày càng nặng nề hơn, đó là điều chắc chắn. Bắt buộc thẩm định vật liệu thấm nước Để giải quyết vấn đề trên, theo tôi cần tiến hành đồng bộ. Trước hết, phải bổ sung ngay văn bản pháp luật quy định bắt buộc thẩm định vật liệu thấm nước trước khi cấp phép các công trình thi công cơ sở hạ tầng mới, kể cả các công trình dân dụng. Vật liệu thấm nước để thi công các mặt bằng hiện nay đầy rẫy trên thị trường, đó là loại bê tông thấm tiêu PERVIOUS CONCRETE, các cá nhân, đơn vị có thể mua sắm dễ dàng. Và nếu có quy định bắt buộc của pháp luật, chắc chắn doanh nghiệp sẽ đầu tư dây chuyền sản xuất vật liệu thấm nước đại trà với giá rẻ, đó chính là quy luật cung - cầu của thị trường. Đất nước ta còn nghèo, không thể đập hết đi xây lại, nên phải tính đến phương án khác hiệu quả và tiết kiệm hơn. Đó là khoan các lỗ có đường kính khoảng 20cm để thấm nước. Lỗ cách lỗ, hàng cách hàng khoảng 0,5m trên các mặt bằng bê tông. Độ sâu của lỗ là hết lớp bê tông, lỗ được đổ đầy vật liệu thấm nước PERVIOUS CONCRETE. Việc khoan các lỗ này cần làm thí điểm ở một mặt bằng hoặc khu vực nào đó để lấy kết quả thẩm định hiệu quả thấm nước. Sau khi có kết quả, mới tiến hành lên kế hoạch khoan mở rộng trên toàn thành phố. Nếu không thể khoan lỗ, có thể cắt bỏ hết những bó vỉa ở vỉa hè đến hết lớp bê tông để thay vào đó vật liệu PERVIOUS CONCRETE. Nếu thành phố có diện tích mặt bằng rộng, khoan lỗ để nước thẩm thấu tự nhiên, các cống thoát nước, kênh rạch sẽ được giảm áp lực dẫn đến hết ngập cục bộ sau mưa. Đồng thời, thành phố cũng sẽ mát mẻ hơn nhờ hơi nước thoát lên từ các lỗ khoan điều hòa nhiệt cho thành phố vào mùa nắng. Để tổ chức thực hiện, chúng ta cần có một bộ bản bình đồ và một bộ bản đồ thành phần cơ giới mặt đất từng khu vực thành phố để tính toán và biết được dòng chảy bề mặt của nước mưa. Đồng thời, khi biết rõ thành phần cơ giới của mặt đất ở từng khu vực, chúng ta sẽ chọn được loại vật liệu thấm tiêu thích hợp. Nếu chưa có bản đồ thành phần cơ giới của đất, phải tổ chức khoan thám sát để xây dựng bản đồ. Nhuận Nguyễn Văn

giai phap chong ngap nuoc